Site icon Lớp Văn Cô Thu

Bài văn nghị luận về tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Bài văn nghị luận về tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều

Bài văn nghị luận về tác phẩm Tú Uyên gặp Giáng Kiều

I. Mở bài:

– Dẫn dắt và giới thiệu về tác phẩm cần nghị luận Tú Uyên gặp Giáng Kiều.

II. Thân bài:

* Phân tích tác phẩm:

a. Nỗi nhớ của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều:

Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi tạo
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

– Khung cảnh thơ mộng, Tú Uyên ngồi đọc sách và tương tư về người con gái.

– Tú Uyên bầu bạn với bức tranh, nhớ nhung Giáng Kiều triền miên sớm khuya.

– Kể cả khi ăn cơm, Tú Uyên cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.

Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mơ hình

– Nỗi nhớ da diết đến “phát phu”, cảm giác như bức tranh là người thật.

– Bức tranh thiên nhiên nhuốm màu nỗi nhớ với trăng thu, ngàn sương, lá khô rụng.

– Thời gian buổi chiều càng làm nỗi nhớ thêm mãnh liệt.

– Sử dụng điển tích sông Tương để thể hiện sự nhớ nhung.

Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?

– Từ thuở gặp mặt đến giờ, Tú Uyên ôm mộng tương tư cả ngày lẫn đêm đến mức “đã chồn” – mệt mỏi.

– Cặp từ đối lập “ngày” – “đêm” kết hợp với động từ ‘tưởng”, “mơ” và “ruột héo”, “gan mòn” cho thấy nỗi nhớ xâm chiếm tâm trí.

– “ai” vừa chỉ đối phương, vừa chỉ chính mình, đồng nhất bản thân với người trong tranh.

Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!

– Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước.

– Xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng, muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng

⇒ Đoạn thơ thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều.

b. Cuộc gặp giữa Tú Uyên và Giáng Kiều:

Một khi ra việc trường văn
Trở về đã thấy bát sân sẵn sàng
(…)
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa

– Tú Uyên đi học, trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn nên lòng nảy sinh mối nghi ngờ.

– Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về, bắt gặp người con gái từ trong tranh bước ra.

Vội vàng đánh tiếng ra chào
Bên mừng bên lệ, xiết bao là tình
(…)
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”

– Tú Uyên thể hiện cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.

– Lời đối thoại của Giáng Kiều toát lên vẻ duyên dáng, hiền thục:

+ Nàng tự nhận là thân bồ liễu mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều.

+ Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên.

+ Mối tình Uyên – Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất.

+ Tấm lòng thủy chung, son sắt của Giáng Kiều.

⇒ Cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều cho thấy tình yêu của cả hai và làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn, phẩm chất thanh cao, hiền hậu, thủy chung của Giáng Kiều.

c. Khung cảnh hạnh phúc của Tú Uyên và Giáng Kiều:

Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
(…)
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha

Giáng Kiều sử dụng phép tiên để thay đổi khung cảnh nhà Tú Uyên.

– Lều cỏ hóa thành lâu đài.

– Ánh sáng bao phủ rực rỡ.

– Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm.

* Đánh giá nội dung và nghệ thuật tác phẩm

a. Nội dung:

Đoạn trích cho thấy vẻ đẹp trong tình yêu của Tú Uyên và Giáng Kiều và ca ngợi tình yêu son sắt, thủy chung, vẻ đẹp tâm hồn của hai nhân vật. Qua đó, tác giả cho thấy hy vọng thoát khỏi thực tại xung quanh và thái độ phê phán về xã hội loạn lạc.

b. Nghệ thuật:

– Thể thơ lục bát truyền thống.

– Truyện thơ Nôm bác học giàu điển cố, điển tích.

– Ngôn ngữ, hình ảnh thơ ước lệ tượng trưng.

– Các từ láy, câu hỏi tu từ.

III. Kết bài:

– Khái quát lại nội dung nghị luận.

– Nêu cảm nhận của bản thân.

Bài văn mẫu

Nói đến truyện thơ Nôm “Bích Câu kì ngộ”, nhiều ý kiến cho rằng tác phẩm vẫn chứa đựng sức hấp dẫn với nhân dân bao đời này bởi đây là một truyện thơ Nôm thuần Việt. Từ những địa danh đến tên người đều đậm chất Việt Nam. Trên bối cảnh của kinh thành Thăng Long xưa, tác giả đã khắc họa mối tình đẹp của Tú Uyên và Giáng Kiều. Đoạn trích “Tú Uyên gặp Giáng Kiều” kể về nỗi tương tư của chàng thư sinh và cuộc gặp mặt bất ngờ của Tú Uyên với người trong mộng.

“Bích Câu kì ngộ” có nghĩa là “Cuộc gặp gỡ kì lạ tại Bích Câu”. Cái tên “Bích Câu” trong nhan đề chính là một địa chỉ văn hóa nổi tiếng ở kinh thành Thăng Long xưa. Nơi đây thường được các vua chúa ghé thăm, tập trung nhiều văn nhân sĩ tử. Chàng thư sinh nghèo Tú Uyên cũng tới Thăng Long để học tập. Khi đi chơi hội chùa Ngọc Hồ, Tú Uyên đã vô tình gặp Giáng Kiều và say đắm nàng nhưng chưa kịp ngỏ lời làm quen thì cô gái đẹp đã biến mất. Về sau, Tú Uyên gặp một ông lão bán tranh tố nữ, thấy có một bức họa giống hệt người con gái đã gặp dạo trước nên bèn mua tranh về nhà treo. Càng ngày Tú Uyên càng nhung nhớ Giáng Kiều, mải mê ngắm bức tranh:

Mưa hoa khép cánh song hồ
Sớm khuya với bức họa đồ làm đôi
Mâm chung một, đũa thêm hai
Thơ trao dưới nguyệt, rượu mời trước hoa

Mở đầu đoạn trích là khung cảnh nên thơ ở “song hồ” – nơi cậu học trò nghèo Tú Uyên đọc sách và tương tư về người trong mộng. Cụm từ “Sớm khuya” cho thấy vòng thời gian tuần hoàn, liên tục. Từ khi gặp Giáng Kiều, Tú Uyên mong nhớ không lúc nào nguôi. Chàng quên hết thời gian và không gian xung quanh, chỉ ngắm nhìn bức họa cả ngày lẫn đêm. Nỗi nhớ da diết và mãnh liệt đến mức Tú Uyên cảm tưởng như người con gái trong tranh đang thực sự đứng trước mặt mình. Niềm tương tư được thể hiện ở hành động cụ thể. Cặp số từ “một” – “hai” cùng với các từ “chung”, “thêm” cho thấy thái độ trân trọng, nâng niu của Tú Uyên dành cho bức chân dung Giáng Kiều. Kể cả khi ăn, chàng cũng ngồi trước bức tranh và tưởng tượng người trong mộng đang đứng trước mặt nên làm thơ, mời rượu.

Tưởng gần thôi lại nghĩ xa
Có khi hình ảnh cũng là phát phu
Êm trời vừa tiết trăng thu
Ngàn sương rắc bạc, lá khô rụng vàng
Chiều thu như gợi tấm thương
Lòng người trông xuống sông Tương mờ hình

Cặp từ đối lập “gần” – “xa” cùng hai động từ “tưởng” và “nghĩ” thể hiện niềm thương nhớ trào dâng đến bứt rứt trong cõi lòng. Tú Uyên bầu bạn với bức tranh cho khuây khỏa nhưng càng ngắm tranh lại càng nhớ nàng. Bức họa quá đẹp khiến chàng trai đã ngỡ như người thiếu nữ đang kề cạnh rất gần nhưng thực chất khoảng cách vẫn quá xa xôi. Những hình ảnh thiên nhiên như “trăng thu”, “Ngàn sương”, “lá khô” khắc họa nên khung cảnh thiên nhiên yên bình, nên thơ. Dưới ánh trăng mùa thu dịu dàng, màn sương mỏng giăng giăng khắp lối tựa như rắc muôn ngàn ánh bạc xuống nhân gian, thảm lá vàng phủ kín khoảnh sân. Thiên nhiên hòa hợp với tâm trạng con người. Trong văn học, buổi chiều là khoảng thời gian đi liền với nỗi nhớ. Ca dao xưa từng nhiều lần diễn đạt nỗi nhớ nhung rất ý nhị, ngọt ngào:

Chiều chiều lại nhớ chiều chiều
Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai

Với Tú Uyên, chiều thu cũng gợi niềm thương nỗi nhớ. Chàng thư sinh đã gửi lòng mình trôi theo dòng nước sông Tương, chìm vào cõi mộng mơ vì quá đỗi say mê bóng dáng nàng thiếu nữ. Hình ảnh sông Tương trong câu thơ gắn với điển tích khi Vua Thuần mất, hai người vợ là Nga Hoàng và Nữ Anh cùng khóc thảm thiết trên sông Tương. Từ đó, đây trở thành dòng sông biểu trưng cho nỗi nhớ:

Sông Tương ai gọi rằng sâu
Chẳng bằng phân nửa mạch sầu của ta
Sông Tương sâu hãy còn có đáy
Bệnh tương tư không bảy không bờ

Hướng về thiên nhiên, thiên nhiên càng khắc sâu sự thương nhớ, trông mong nên Tú Uyên lại quay về giãi bày với chính mình và tâm sự với bức tranh:

Kề bên năn nỉ bày tình
Nỗi nhà thuở trước, nỗi mình ngày xưa
Từ phen giáp mặt đến giờ
Những là ngày tưởng đêm mơ đã chồn
Ấy ai điểm phấn tô son
Để ai ruột héo, gan mòn vì ai?

Động từ “năn nỉ” thể hiện sự cồn cào, khao khát được giãi bày tình cảm mãnh liệt của Tú Uyên. Tú Uyên trải lòng về hoàn cảnh của chính mình và về tình yêu. Cặp từ đối lập “ngày” – “đêm” đi liền với hai từ “tưởng”, “mơ” thể hiện nỗi nhớ thường trực, không lúc nào ngơi nghỉ mà luôn cuộn xoáy trong tâm trí chàng trai. “đã chồn” tức là quá mệt mỏi, Tú Uyên nhớ nhung Giáng Kiều đã trở thành “bệnh tương tư”. Lời thơ dường như một lời than van, trách móc rất tình tứ. Tú Uyên trách thiếu nữ vì sao lại “điểm phấn tô son” để người quân tử “ruột héo gan mòn”. Tiếng “ai” được lặp lại hai lần, vừa chỉ đối phương vừa chỉ chính mình, đồng nhất hai con người và cũng là hai đầu nỗi nhớ

Tình yêu luôn chứa đựng sức mạnh diệu kì khiến con người có thể đánh đổi tất cả để có được nó. Tú Uyên cũng vậy, chàng đã lấy “Nghìn vàng” và “cung trăng” để thể hiện tình yêu:

Buồng đào nửa bước chẳng rời
Nghìn vàng đổi được trận cười ấy chăng?
Rày xin bẻ khoá cung trăng
Vén mây mở mặt chị Hằng, chút nao!

Tú Uyên nhớ Giáng Kiều đến mức tách mình với thế giới bên ngoài, không rời căn buồng nửa bước. Chàng xin được đổi nghìn vàng để lấy nụ cười của nàng. Chữ “nghìn” chỉ nỗi nhớ đằm sâu, không gì so sánh được. Câu thơ là một câu hỏi tu từ, có tác dụng nhấn mạnh tình cảm của Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Không chỉ vậy, chàng còn muốn mở khóa cung trăng để lại được chiêm ngưỡng dung mạo của nàng, vượt qua giới hạn của không gian và thời gian.

Bằng những điển tích, hình ảnh thiên nhiên giàu tính ước lệ, các cặp từ đối lập, cùng câu hỏi tu từ, đoạn thơ đã thể hiện nỗi nhớ da diết, tình yêu mãnh liệt mà Tú Uyên dành cho Giáng Kiều. Tình yêu ấy là biểu tượng cho khát khao hạnh phúc, thoát khỏi thực tại buồn bã của con người.

Tiếp đến là những câu thơ thuật lại sự việc khi Tú Uyên và Giáng Kiều gặp nhau:

So xem phong vị khác thường
Mùi hoa sực nức, mùi hương ngạt ngào
Bếp trời sẵn đó hay sao?
Của đâu thấy lạ, lòng nào chẳng nghi!
Sáng mai cứ buổi ra đi
Liệu chừng thoắt trở lại về thử coi
Bỗng đâu thấy sự lạ đời
Trong tranh sao có bóng người vào ra?
Nhân nhân mày liễu mặt hoa
Này người khi trước đâu mà đến đây?

Một hôm, Tú Uyên đi học, khi trở về đã thấy trong nhà có cơm canh bày sẵn. Bữa cơm ấy có “phong vị khác thường”, tỏa hương thơm như hoa ngọt ngào. Tú Uyên thấy lạ, lòng nảy sinh mối nghi ngờ. Sáng hôm sau, Tú Uyên vờ đi ra ngoài và bất ngờ trở về thì bắt gặp người con gái có dung mạo vô cùng xinh đẹp từ trong tranh bước ra. Trước sự việc ấy, Tú Uyên quá hạnh phúc khi gặp được người trong mộng nên đã hành động vội vã: “Vội vàng đánh tiếng ra chào”. Chi tiết “Bên mừng bên lệ” cho thấy cảm xúc rối rời, hạnh phúc đến mức rơi lệ.

Đáp lại lời chào hỏi từ Tú Uyên, Giáng Kiều cũng e thẹn giới thiệu về mình. Sự xuất hiện của Giáng Kiều khiến ta liên tưởng đến hình ảnh những nàng tiên, cô Tấm trong truyện cổ dân gian Việt Nam rất mực hiền thục, có tấm lòng thơm thảo. Giáng Kiều cũng là cô gái như vậy. Lời nói của nàng toát lên vẻ đoan trang, dịu dàng:

Nàng rằng: “Bồ liễu phận thường
Vì mang má phấn nên vương tơ điều
Vốn xưa thiếp khách thanh tiêu
Tiên Thù là hiệu, Giáng Kiều là tên
Ba sinh đã nặng vì duyên
Đem thân liễu yếu kết nguyền đào thơ
Nhân duyên đã định từ xưa
Tơ trăng xe đến bây giờ mới thân
Cũng là nhờ đức tiên quân
Đoá hoa biết mặt chúa xuân từ rày”

Nàng tự nhận là thân “bồ liễu” mỏng manh, vốn là “khách thanh tiêu” trên trời, có hiệu là Tiên Thù, tên gọi là Giáng Kiều. Vì mối “tơ điều” đã gắn kết nàng và Tú Uyên nên “Ba sinh đã nặng vì duyên”. Qua lời nói của Giáng Kiều có thể thấy mối tình Uyên – Kiều là mối thiên duyên tiền định, được sự đồng thuận của trời đất. Lắng nghe lời nói của Giáng Kiều, Tú Uyên cũng bày tỏ những tâm tư đã chồng chất trong lòng bấy lâu: “ Nhắp sầu gối muộn có ngày nào nguôi? ”.

Không chỉ có dung nhan xinh đẹp, lời nói ngọt ngào, phẩm cách trang nhã mà Giáng Kiều còn là người phụ nữ có tấm lòng thủy chung, son sắt trong tình yêu và có ý thức cao độ về danh dự của mình:

Nàng rằng: “Xin quyết gieo cầu
Tấm son thề với trên đầu xanh xanh
Dám đâu học thói yến oanh
Mặn tình trăng gió, nhạt tình lửa hương
Gieo thoi trước đã dở dang
Sao nên nát đá phai vàng như chơi
Mái Tây còn để tiếng đời
Treo gương kim cổ cho người soi chung
Lạ gì hoa với gió đông
Tiếc hương vả cũng nể lòng chim xanh
Một mai mưa gió bất tình
Vóc tàn nên để yến oanh hững hờ
Nghĩ trong thân phận yếu thơ
Làm chi để tiếng sờ sờ lại sau!

Tác giả đã vận dụng điển tích kén rể của vua Hán Vũ Đế cho công chúa ngồi trên lầu cao ném quả cầu xuống, ai bắt được cầu thì lấy người ấy để thể hiện tấm lòng mà Giáng Kiều dành cho Tú Uyên. Hai từ “quyết” và “thề” được đặt ở hai dòng thơ liền nhau cho thấy thái độ nghiêm túc, trang trọng của Giáng Kiều khi nói về hôn nhân, hạnh phúc. Nàng khẳng định tấm lòng trinh bạch của mình khác xa với “thói yến oanh” ham vui và ngắn ngủi. Cặp từ đối lập “mặn” – “nhạt”, “trăng gió” (hời hợt) – “lửa hương” (mặn nồng) được đặt trong cùng một câu thơ càng khẳng định vẻ đẹp phẩm chất của cô gái và tấm lòng chung thủy trong tình yêu. Những điển tích điển cố như “Gieo thoi”, “Mái Tây” thể hiện ý thức giữ gìn tình yêu của người con gái.

Thưa rằng: “Túc trái tiền nhân
Không dưng dễ xuống cõi trần làm chi
Song còn mấy bạn tương tri
Bấy lâu chưa có chút gì là đâu
Trước xin từ biệt cùng nhau
Chữ duyên này trở về sau còn dài”

Giáng Kiều đã vận đến “tiền nhân” – duyên nợ từ kiếp trước để nói về lí do nàng xuống trần. Từ trong thâm tâm, Giáng Kiều đã thực sự coi Tú Uyên là “bạn tương tri”. Mối quan hệ tri âm, tri kỉ xưa nay dễ gì bị phai nhạt bởi khoảng cách nên nàng đã hứa “Chữ duyên này trở về sau còn dài”. Nét đẹp của Giáng Kiều nằm ở sự thông minh, khéo léo, tế nhị và tấm lòng trước sau như một.

Sau cuộc gặp gỡ, đối thoại giữa Tú Uyên và Giáng Kiều là khung cảnh hạnh phúc của đôi uyên ương. Giáng Kiều đã “rút chiếc trâm đầu”, hóa phép tiên để thay đổi khung cảnh xung quanh:

Thảo am thoắt đã đổi ra lâu đài
Tường quang sáng một góc trời
Nhởn nhơ áo, mũ, xiêm, hài, biết bao!
Người yểu điệu, khách thanh tạo
Mỗi người một vẻ, ai nào kém ai
Lả lơi bên nói bên cười
Bên mừng cố hữu, bên mời tân lang
Đong đưa khoe thắm đua vàng
Vũ y thấp thoáng, Nghê thường thiết tha

Chỉ trong phút chốc, lều cỏ đã hóa thành lâu đài. Vầng dương quang bao phủ rực rỡ, sáng cả một góc trời. Kẻ vào người ra tấp nập, ai nấy cũng thanh tao, lịch lãm. Các từ láy “Nhởn nhơ”, “Lả lơi”, “Đong đưa” cùng động từ “nói, cười”, “đua”, “khoe” đã diễn tả tâm trạng vui tươi, say trong men rượu của quan khách và gia chủ.

Như vậy, đoạn trích bao gồm nỗi nhớ của Tú Uyên với dáng Kiều, cuộc gặp gỡ của đôi uyên ương chính là biểu hiện cho khát khao hạnh phúc lứa đôi và niềm hy vọng vào tình yêu mãnh liệt. Thể thơ lục bát truyền thống của dân tộc, hệ thống các từ láy giàu tính biểu đạt, các điển tích điển cố, những hình ảnh thiên nhiên ước lệ tượng trưng đã góp phần làm nên thành công cho tác phẩm.

Exit mobile version